Nước lợ có thể coi là hỗn hợp của nước biển và nước ngọt, và các khu vực cửa sông là các vùng nước trong đó nước biển và nước ngọt từ sông đổ ra pha trộn với nhau. Các môi trường sống nước lợ rộng lớn nhất trên thế giới vì thế chính là các khu vực cửa sông, nơi các con sông tiếp giáp với biển.
Chẳng hạn đoạn sông Thames chảy qua London là một vùng cửa sông kinh điển. Thị trấn Teddington nằm cách vài dặm về phía tây London đánh dấu giới hạn của vùng có tác động của thủy triều trên sông Thames, mặc dù con sông này vẫn còn là sông nước ngọt cho tới tận vùng Battersea, gần London hơn (cũng phía tây) do độ mặn trung bình vẫn còn rất thấp và quần cá vẫn bao gồm chủ yếu là các loài cá nước ngọt như cá dầy (Rutilus rutilus), cá đác (phân họ Leuciscinae của họ Cyprinidae), cá chép, cá peca (Perca spp.) và cá chó(Esox spp.). Cửa sông Thames chỉ trở thành vùng nước lợ thật sự trong đoạn nằm giữa Battersea và Gravesend và sự đa dạng của các loài cá nước ngọt trở nên ít đi, chủ yếu chỉ còn lại cá dầy và cá đác, các loài cá biển chịu độ mặn mềm như cá bơn mắt phải, cá sói biển châu Âu (Dicentrarchus labrax), cá đối và cá ốtme trở nên phổ biến hơn. Xa hơn về phía đông, độ mặn tăng dần lên và các loài cá nước ngọt bị thay thế hoàn toàn bằng các loài cá biển chịu độ mặn mềm, cho tới khi con sông này chảy tới Gravesend, tại điểm này các điều kiện trở thành mang tính biển nhiều hơn và quần cá của nó là tương tự như quần cá của biển Bắc cận kề và bao gồm cả các loài cá biển chịu độ mặn mềm lẫn chịu độ mặn cứng. Một kiểu thay thế tương tự cũng có thể quan sát thấy với các loài thực vật thủy sinh hay các loài động vật không xương sống sinh sống trong con sông này.
Kiểu kế tiếp sinh thái này từ các dạng của hệ sinh thái nước ngọt sang nước mặn là thông thường và điển hình cho các cửa sông.Các cửa sông tạo thành các điểm quan trọng trong sự di cư của các dạng cá ngược dòng vào song hay xuôi dòng ra biển để đẻ trứng, chẳng hạn như cá hồi và cá chình, tạo cho chúng một khoảng thời gian để tụ tập thành bầy cũng như để thích nghi dần với sự thay đổi độ mặn. Các loài cá hồi là dạng cá ngược dòng vào song để đẻ, nghĩa là chúng sinh sống ngoài biển nhưng lại bơi vào sông để đẻ trứng trong khi các loài cá chình là dạng cá xuôi dòng ra biển để đẻ, do chúng sinh sống trong các sông suối nước ngọt nhưng phải ra biển để đẻ trứng. Bên cạnh các loài di cư xuôi hay ngược thông qua vùng cửa sông, tại đây còn nhiều loài cá khác sử dụng môi trường cửa sông này như là “vườn ương” để đẻ trứng hay để cá bột có thể nuôi dưỡng và phát triển trước khi chúng đủ cứng cáp để bơi vào các vùng nước khác. Cá trích (Clupeidae) và cá bơn sao châu Âu (Pleuronectes platessa) là hai nhóm cá có tầm quan trọng thương mại sử dụng cửa sông Thames vào mục đích này.
Các cửa sông cũng được sử dụng phổ biến như là nơi đánh bắt cá hay nơi nuôi trồng thủy hải sản. Chẳng hạn các trại nuôi cá hồi Đại Tây Dương (Salmo salar) thông thường hay nằm tại các cửa sông, mặc dù điều này gây ra các tranh cãi, do khi làm như vậy, các trang trại nuôi cá đặt cá hoang dã di cư vào tình trạng dễ bị lây nhiễm một lượng lớn ký sinh trùng, chẳng hạn như rận biển, thoát ra từ các khu quây kín để nuôi cá.
Độ mặn của nước dựa trên các muối hòa tan theo ppt (Việt Nam) | |||
---|---|---|---|
Nước ngọt | Nước lợ | Nước mặn | Nước muối |
< 1 | 1 – 10 | >10 hoặc >1 | > 50 |
Độ mặn của nước dựa trên các muối hòa tan theo ppt (Anh-Mỹ) | |||
---|---|---|---|
Nước ngọt | Nước lợ | Nước mặn | Nước muối |
< 0,5/1 | 0,5/1 – 17/30 | 1 – 35 | > 40/50 |
Nước lợ là loại nước có độ mặn cao hơn độ mặn của nước ngọt, nhưng không cao bằng nước mặn. Nó có thể là kết quả của sự pha trộn giữa nước biển với nước ngọt, chẳng hạn như tại các khu vực cửa sông hoặc nó có thể xuất hiện trong các tầng ngậm nước hóa thạch lợ. Một số hoạt động nhất định của con người cũng có thể tạo ra nước lợ, cụ thể là trong một số dự án kỹ thuật xây dựng dân sự như các dạng đê điều ven biển hay việc làm ngập lụt các vùng đất lầy lội ven biển để tạo ra các ao hồ nước lợ để nuôi tôm nước lợ. Nước lợ cũng có thể là chất thải chủ yếu của công nghệ năng lượng gradient độ mặn. Do nước lợ là không thích hợp với sự phát triển của phần lớn các loài thực vật trên đất liền, cho nên nếu không có sự quản lý và kiểm soát thích hợp thì nó có thể gây ra các tổn hại cho môi trường (xem bài về trang trại nuôi tôm).
Khái niệm nước lợ cũng thay đổi tùy theo các quan điểm nhìn nhận. Về mặt kỹ thuật, người Anh-Mỹ cho rằng nước lợ chứa từ 0,5 hoặc 1 tới 17 hoặc 30 gam muối hòa tan trong mỗi lít nước—thông thường được biểu diễn dưới dạng 0,5/1 tới 17/30 phần nghìn (ppt hay ‰). Vì thế, nước lợ bao phủ một khoảng chế độ mặn và nó không thể coi là một điều kiện có thể định nghĩa chính xác. Tuy nhiên, Bách khoa Toàn thư Việt Nam coi nước lợ là nước có độ mặn từ 1 tới 10 g/L hay 1 tới 10 ppt. Một đặc trưng của nhiều bề mặt nước lợ là độ mặn của chúng có thể dao động mạnh theo thời gian và/hoặc không gian.
Wikipedia
- Phân loại nước theo độ mặn
- Máy đo độ mặn cầm tay
- Máy đo độ dẫn điện dung dịch
- Máy đo độ mặn tốt nhất hiện nay
- Máy đo nồng độ oxy hòa tan